@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@
( from OPEN SECRET – by Wei Wu Wei )
Integral Seeing
SEEING PHENOMENA as noumenon is true seeing.
It is seeing noumenally—that is, in non-objective relation with ‘things’,
instead of seeing phenomenally—
which is in objective relation with ‘things’.
Seeing phenomenally is seeing phenomena as our objects.
Seeing noumenally is seeing phenomena as our selves,
as all they are, as their source and as our source. It is very
precisely not seeing them as our objects but as their subject,
not objectively but subjectively, not as being ‘without’ but
as being ‘within’. It is reuniting the separated with their integer
which is all that we are.
Such true seeing, therefore, is no-seeing (of some
thing by some thing), ultimately neither seeing nor nonseeing—
since there is then no object to see or not to see,
and no subject of no object.
It is re-absorption, re-union, re-identification of the
dis-united, making split-mind whole, at-one-ment.
@@@@@
.
.
Cái Ngộ của Sự Thấy
Bình thuờng tôi cứ hay giả dụ rằng mình “thấy” , nhưng xét kỹ thì phải nói cho đúng là – “vừa thấy mà vừa không thấy” .
Chẳng hạn như khi đứng bên ngoài nhìn một căn nhà thì chỉ phát hiện các bức tuờng , bên trong có chứa gì , quả là không biết . Nhìn qua khung cửa sổ thì thấy một cái bàn … ế ! mà không phải ! chỉ thấy 1 mặt bàn và 3 cái chân . Tâm trí tôi thầm ghép thêm một cái chân nữa, và cho đó là một cái bàn nguyên vẹn .
Khi đi băng qua một con đuờng , tôi thấy có một vật đang phóng tới phía mình . Nếu trí óc tôi cho rằng đó là một xe hơi chạy nhanh thì chân sẽ ngừng lại . Còn nếu tuởng như xe đó chạy chậm thì chắc vẫn tiếp tục qua đuờng . Rủi mà cái giả dụ của tôi không đúng, thì … hết chuyện !
Cuộc sống của tôi dựa trên toàn những giả dụ như vậy, từ mọi việc thật là tầm thuờng cho tới những vấn đề rất hệ trọng ngặt nghèo .
Nhưng phải nói , điều ly kỳ nhất chính là cái giả dụ rằng ‘ có một nhân vật là “tôi” , đang giả dụ‘ .
Xét đúng lý ra thì chỉ có “sự thấy”, chứ chẳng có cái “tôi” để mà thấy. Cái gọi là “tôi” đó chỉ là một cách nói , một cách diễn tả , một cái hiện tuợng nhất thời bầy ra bởi một “hượng tiện” vô vàn nào đó .
Từ khởi điểm, cái “hượng tiện” này không thể nào tự thấy nó đuợc. Muốn thấy , thì dù cho chỉ trong thấp thoáng thôi, nó đã phải tự chia làm hai: – một nửa thì nhìn để tuởng là mình đang thấy nửa kia . Cái mà được thấy tức không phải là hoàn toàn thật rồi , bởi nó chỉ có một nửa .
Khi mà cái “hượng tiện” này phân chia thêm ngàn mức nữa để mà tạo dựng ra một nhân vật như “tôi” , thì sự việc thật trở nên quá sức rối bời : Mỗi nhân vật tên “tôi” này cứ tưởng mình là một cái gì riêng biệt , tự chủ, tự lập, tự do, tự nguyện …, nào có hay rằng mình chỉ là một mảnh vụn của “hượng tiện”. Và cũng đâu có ngờ rằng chính cái cảm nghĩ – “tôi làm cái này” , “tôi làm cái kia”, “tôi” là như thế này , “tôi” là như thế khác, đã kết tạo ra mọi sự ràng buộc , tù túng … đã tự hạn chế , tự đày đọa !
Bám vào cái “tôi” này thật không khác chi ôm tội . Các gông cùm của chữ “tôi” quá ư là nặng!
Sự thật thì “tôi” chỉ là một khái niệm của cái “tri giác” hay cái “hượng tiện” gì đó .
Mọi khái niệm thì đều là trừu tuợng .
Chỉ có “cái mà gây ra những khái niệm” mới có thể là thật .
Nhưng mà về “cái này” thì hoàn toàn không thể có một khái niệm, hay một diễn tả nào đuợc !
….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét